Dòng nước mát từ Kênh Đông Củ Chi đã góp phần đánh thức tiềm năng kinh tế ở vùng đất thép.

Kênh Đông, “địa đạo nổi” ở Củ Chi

Dòng nước mát từ Kênh Đông Củ Chi đã góp phần đánh thức tiềm năng kinh tế ở vùng đất thép.
Dòng nước mát từ Kênh Đông Củ Chi đã góp phần đánh thức tiềm năng kinh tế ở vùng đất thép.

45 năm sau ngày giải phóng, Củ Chi đất thép, giờ đã khoác lên mình chiếc áo mới. 45 năm so với lịch sử của dân tộc không dài, nhưng ngần ấy thời gian, trên quê hương đất thép thành đồng này đã mọc lên nhiều công trình mang đậm dấu ấn ý Đảng lòng dân.

Trong đó, kênh Đông được ví như công trình “địa đạo nổi” đã làm thay đổi căn bản về kinh tế, đời sống của nông thôn Củ Chi.
Nhớ lại những năm đầu mới giải phóng, nguyên Bí thư Huyện ủy Củ Chi Nguyễn Văn Luân (Ba Luân) bồi hồi: “Sau giải phóng, Củ Chi gặp rất nhiều khó khăn, trong đó nỗi lo thường trực là đói giáp hạt. Cứ khoảng độ tháng tư, tháng năm là người dân phải chạy lo từng bữa ăn. Dù đã có nhiều cố gắng, cật lực lao động, nhưng do đồng ruộng khô cằn, khi có mưa thì phèn dậy, sản xuất lúa chỉ một vụ, các loại cây trồng khác thì năng suất kém…”.
Lão nông Tô Văn On, 75 tuổi, ngụ ấp Vân Hàn, xã Trung Lập Thượng, nhớ lại: “Thời ấy nhà nào có ruộng cò bay thẳng cánh mới có lúa gạo ăn quanh năm. Gia đình tôi đông con, ruộng ít nên cứ tới tháng năm, tháng sáu là phải ăn độn thêm các loại củ môn, củ mì (sắn). Không những vậy, khoảng đầu tháng tư nắng nóng, nước mạch tắc hết, nước giếng dùng cho sinh hoạt cũng không có, muốn có nước phải đào sâu vào lòng đất. Ăn uống thiếu thốn thì đừng có mong gì chuyện xa xôi khác, chuyện học hành của sắp nhỏ trong xóm, trong ấp cũng không tròn”…
Đồng chí Ba Luân cho biết, để giải quyết vấn đề lương thực, lo cho dân có cái ăn no đủ thì phải làm thủy lợi. Máy móc, thiết bị thì thiếu thốn, thế là sức người được huy động tối đa. Hàng trăm nghìn thanh niên trai trẻ được huy động. Với phương tiện là cuốc xẻng, ngày đêm họ đào kênh với khí thế như những năm đào địa đạo. “Ngày xưa đào địa đạo thì phải bí mật vì sợ địch phát hiện, còn bấy giờ đào tuyến kênh Đông, tụi tui hát hò vui vẻ quên cả mệt nhọc. Đào kênh để ruộng đồng mát xanh, để quê hương đổi thay, thanh niên tụi tui thay nhau đào ngày này qua ngày nọ để sớm đưa nước về chân ruộng” – kiện tướng đào kênh Nguyễn Thị Ngỡ, ấp Lào Táo Thượng, xã Trung Lập Thượng, nhớ lại…
Sau một thời gian dài thi công bằng sức người và cơ giới, năm 1985, công trình kênh Đông Củ Chi chính thức được đưa vào sử dụng, đưa dòng nước mát từ hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh) về tưới cho 12.000 ha đất sản xuất nông nghiệp của 12 xã phía bắc Củ Chi.
Kênh Đông Củ Chi đã nhanh chóng khẳng định được vai trò phục vụ sản xuất, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế trên địa bàn TP Hồ Chí Minh nói chung và huyện Củ Chi nói riêng. Trưởng phòng Kinh tế huyện Củ Chi Lê Đình Đức cho biết, khi có nước kênh Đông, ngoài tác dụng thau chua rửa phèn, làm sống dậy những vùng đất hoang hóa như Tam Tân -Thái Mỹ, nguồn nước này còn giúp cho nông dân yên tâm sản xuất, không còn trông chờ vào “ông trời”. Từ chỗ chỉ sản xuất được một vụ lúa với các giống địa phương năng suất thấp, bà con đã sản xuất được bốn vụ/năm. Năng suất lúa từ 1,2 – 1,5 tấn/ha/vụ (trước năm 1985), tăng bình quân lên 4,5 tấn/ha/vụ. Đậu phộng (lạc) từ 0,8-1,2 tấn/vụ/ha, tăng bình quân lên 3,2-3,5 tấn/ha/vụ…
Cứ như thế, sản xuất nông nghiệp của huyện Củ Chi liên tục phát triển. Không dừng lại ở cây lúa, đậu, hoa màu, nông dân Củ Chi còn tận dụng nguồn nước để nuôi trồng thủy sản với diện tích hơn 1.000 ha. Kênh Đông còn tạo ra mạch nước ngầm phục vụ cho đời sống dân sinh và sản xuất công nghiệp, đa dạng môi trường tự nhiên cho các loài thủy hải sản sinh sôi phục vụ cho đời sống con người và cân bằng môi trường sinh thái.
Cũng nhờ có công trình thủy lợi này, TP Hồ Chí Minh đã chủ động được nguồn nước, tạo điều kiện thuận lợi phát triển nuôi trồng thủy sản; cấp nước sinh hoạt cho khu công nghiệp Tây Bắc Củ Chi. Công trình còn có vai trò quan trọng trong việc đẩy mặn khu vực ven sông Sài Gòn, gồm Củ Chi, Hóc Môn, quận 12 và khu vực bắc Bình Chánh với hơn 20.000 ha và phòng, chống cháy rừng.
Củ Chi giờ đây có đàn bò sữa lớn nhất TP Hồ Chí Minh với hơn 60 nghìn con và là vùng trọng điểm cung cấp các loài rau, củ, quả, gia súc, gia cầm các loại và hoa tươi cho nhu cầu tiêu dùng của người dân thành phố và các vùng phụ cận.
Đồng chí Lê Đình Đức cho biết, để bảo đảm cho công trình phát huy tác dụng lâu dài, từ ngân sách Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân trong huyện đã bê-tông hóa 575 tuyến kênh tưới, 78 tuyến kênh tiêu với chiều dài 582 km. Ngân sách thành phố đã đầu tư xây dựng hai nhà máy nước Tân Thông Hội với công suất 240 nghìn m3 /ngày đêm và khu công nghiệp Tây Bắc 150 nghìn m3. Nhà máy nước Tân Thông Hội đang cung cấp 180 nghìn m3 /ngày đêm cho TP Hồ Chí Minh. Sắp tới, để bảo đảm nước sạch cho người dân sử dụng theo chỉ đạo của Thành ủy, UBND thành phố Hồ Chí Minh, huyện Củ Chi và Công ty cấp nước Sài Gòn (Sawaco), đang xúc tiến đầu tư công trình để 100% hộ dân ở Củ Chi có nước sạch sinh hoạt vào năm 2020.
Ngày qua ngày, hệ thống kênh Đông Củ Chi mang dòng nước ngọt từ hồ Dầu Tiếng về tưới mát ruộng vườn, cho lúa thêm trĩu hạt, cây trái trĩu cành. Trong dòng chảy ấy có cả mồ hôi, nước mắt của bao thế hệ người dân nơi đây đã lao động đêm ngày cho dòng kênh mãi xanh.
Củ Chi anh hùng trong kháng chiến đang đổi thay từng ngày. 40 năm sau giải phóng, Củ Chi đã có nhiều công trình quan trọng phục vụ quốc kế dân sinh. Trong đó, kênh Đông Củ Chi là công trình được nhắc đến nhiều nhất vì đã góp phần làm đổi thay căn bản về đời sống kinh tế ở địa phương, tạo tiền đề để Củ Chi ngày càng giàu đẹp.

VĂN TÀI